.
Trong thời gian qua, Ðảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị, xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hàng năm, với sự quan tâm của Tỉnh ủy - HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh sự giúp đỡ của các Bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành bạn, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, kết quả giải quyết việc làm mới đều tăng.
Qua 35 năm tái lập tỉnh, thực hiện chính sách an sinh xã hội, giải quyết việc làm có ý nghĩa rất quan trọng và tích cực trong việc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo nhanh, bền vững, đẩy nhanh sự tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, với tổng diện tích đất là 5.135,2 km² (bằng 1,7% diện tích tự nhiên cả nước), dân số gần 1,3 triệu người. Đến cuối tháng 3 năm 2024, trên địa bàn tỉnh có 6.534 doanh nghiệp đang hoạt động, với gần 160.000 lao động; trong đó, có 207 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi, với 71.509 người lao động. Số doanh nghiệp sử dụng từ 500 lao động trở lên có 45 doanh nghiệp (chiếm 0,68% số doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh), số doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động có 2.457 doanh nghiệp (chiếm 37,6% số doanh nghiệp hoạt động), gần 300 doanh nghiệp có tổ chức công đoàn cơ sở, với gần 75.000 người lao động tham gia công đoàn cơ sở ở doanh nghiệp.
Với đặc thù, số lượng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh không quá lớn, hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, số người lao động không nhiều, các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động đều hoạt động trong Khu kinh tế, các Khu công nghiệp, có sự quản lý trực tiếp từ Ban Quản lý Khu Kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng Ngãi.
Trong thời gian đầu, qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, công tác điều động lao động công ích, di dân, tái định cư, xây dựng vùng kinh tế mới; sắp xếp, điều chỉnh lực lượng lao động và triển khai các chính sách về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã góp phần phân bổ lại lực lượng lao động, định hình và đề ra các chủ trương giải quyết việc làm cho người dân.
Trong những năm gần đây, chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh từng bước phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khai thác hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sang khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ đã làm tăng năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế. Tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 59,91% năm 2021, đến năm 2023 tăng lên 62,95%
Công tác giải quyết việc làm được chú trọng, lực lượng lao động tăng về số lượng và cải thiện về chất lượng theo hướng hiện đại, bền vững. Nhiều chính sách tạo việc làm, hỗ trợ phát triển thị trường lao động đã được triển khai nhất quán, liên tục. Giai đoạn 2021 - 2023, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho hơn 7.000 lao động, tỷ lệ thất nghiệp thường xuyên duy trì ở mức dưới 3%.
Song song với đó, công tác giảm nghèo có nhiều tiến bộ, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo được triển khai đồng bộ và đạt kết quả tích cực, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Trong năm đầu tái lập tỉnh, tỷ lệ đói nghèo của tỉnh ở mức rất cao, chiếm tỷ lệ đến 47,45%. Đến cuối năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 6,13% (theo chuẩn nghèo đa chiều 2022 - 2025), trong đó, miền núi còn 24,26%; kế hoạch năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 4,53%, trong đó, miền núi còn 17,26%.
Chất lượng cuộc sống người dân được nâng cao, nhất là đối tượng thuộc chính sách bảo trợ xã hội; hầu hết các hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội đều được tiếp cận và thụ hưởng chính sách của Nhà nước.
Năm 2023, trong bối cảnh kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, thách thức, ngành Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. Hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của Ngành được UBND tỉnh giao, trong đó có 02 tiêu đạt và vượt. Cụ thể là tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị 1,53% (chỉ tiêu đạt và vượt so với kế hoạch năm 2023 đề ra 2,2%); tỷ lệ phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội trên tổng lực lượng lao động trong độ tuổi 23,78% (chỉ tiêu đạt và vượt so với kế hoạch năm 2023 đề ra 23%); cơ cấu lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội 32,6% (chỉ tiêu đạt với kế hoạch năm 2023 đề ra 32,6%); tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 62,95%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ là 25,66% (chỉ tiêu đạt với kế hoạch năm 2023 đề ra 62,95%); giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều toàn tỉnh 1,12% (đạt chỉ tiêu so với kế hoạch năm 2023 đề ra 1,12%), riêng các huyện miền núi giảm 4,51% theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025.
Người lao động làm việc tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Cùng với sự phục hồi và phát triển kinh tế, thị trường lao động trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định và đảm bảo; kịp thời hỗ trợ người dân, người lao động bị mất việc, giảm giờ làm, hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động trong doanh nghiệp ổn định, hài hòa và tiến bộ; việc làm và thu nhập của người lao động có tăng so với cùng kỳ năm 2022. Kết nối cung - cầu lao động được tăng cường; tình trạng hơn 4.000 lao động bị giãn việc, mất việc ở các doanh nghiệp diễn ra từ quý IV năm 2022 đã giảm mạnh trong năm 2023. Qua đó, tỷ lệ thất nghiệp chung của tỉnh luôn duy trì ở mức dưới 2%/năm, mức thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 1,53%, đạt mục tiêu đề ra.
Đáng chú ý là hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phục hồi tích cực, đã có 1.028 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành có sự chuyển biến tích cực, trong đó lao động khu vực nông, lâm, nghiệp và thủy sản giảm còn 32,6% năm 2023; tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh 62,95% năm 2023.
Những phiên giao dịch việc làm, ngày hội việc làm được tổ chức nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động trong vấn đề việc làm
Trong 06 tháng đầu năm 2024, công tác lao động, việc làm và thực hiện chính sách xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Triển khai tổ chức 06 phiên giao dịch việc làm đầu Xuân Giáp Thìn - năm 2024, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, với nhu cầu cần tuyển hơn 14.500 lao động, đa dạng các cấp trình độ tuyển dụng (từ lao động phổ thông có tay nghề đến trình độ Cao đẳng, Đại học) và đa dạng các ngành nghề của vị trí làm việc. Qua thống kê, nhu cầu tuyển dụng năm nay của các doanh nghiệp yêu cầu có trình độ bằng cấp, chứng chỉ là hơn 49%, điều đó khẳng định chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp đang có sự chuyển biến. Đồng thời, để thu hút được lao động, bên cạnh việc đảm bảo mức lương tốt, nhiều nhà tuyển dụng cũng đưa ra các chính sách ưu đãi, những chế độ đãi ngộ để thuyết phục người lao động.
Mục tiêu giải quyết việc làm bền vững, chất lượng, phát triển nguồn nhân lực và hỗ trợ phát triển thị trường lao động là quan điểm, chủ trương xuyên suốt của Đảng, cụ thể hóa bằng nhiều chính sách hỗ trợ người lao động, trong đó có lao động yếu thế và tăng cường việc làm cho lao động khu vực phi chính thức; hỗ trợ lao động tìm việc làm, tiếp cận thông tin việc làm, nghề nghiệp thông qua phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, cho vay hỗ trợ tạo việc làm, chính sách việc làm công; hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng nghề; hỗ trợ đảm bảo một phần thu nhập, giúp người thất nghiệp sớm quay trở lại thị trường lao động thông qua chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Trong thời gian qua, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ, hỗ trợ của các bộ, ban, ngành Trung ương; sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp, tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong công tác thực hiện chính sách an sinh xã hội và giải quyết việc làm trên địa bàn.
Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá trên các lĩnh vực, phấn đấu cao nhất các mục tiêu Kế hoạch 5 năm 2021 – 2025, với 05 chỉ tiêu kế hoạch đề ra như sau: Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị 1,5%; cơ cấu lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội 32,1%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 64,4%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ là 25,75%; giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều toàn tỉnh 1,58% - 1,6%, riêng các huyện miền núi giảm 6,0% - 7,0% theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 - 2025; tỷ lệ phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội trên tổng lực lượng lao động trong độ tuổi đạt 24-25%. Do đó, trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục phát huy kết quả đạt được, quyết tâm cao hơn, quyết liệt kiên trì, chung sức đồng lòng phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu phát triển về lao động, người có công và xã hội, tiếp tục xây dựng tỉnh Quảng Ngãi phát triển toàn diện và đồng bộ, phấn đấu sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.
Hà Huỳnh
`); //a.document.write("